Phần 1
Nhà thờ Sagrada Familia và dấu vết của thời gian
Nói đến kiến trúc Tây Ban Nha nghĩa là nói đến kiến trúc ở bất kỳ vùng nào ngày nay thuộc lãnh thổ đất Tây Ban Nha và do các kiến trúc sư Tây Ban Nha khắp thế giới thực hiện. Từ này bao hàm những công trình nằm bên trong ranh giới địa lý Tây Ban Nha ngày nay trước khi địa danh này được đặt cho những lãnh thổ đó (cho dù người ta có gọi là Hispania, Al-Adalus, hay các vùng đất đó được thành lập từ nhiều vương quốc Thiên Chúa Giáo). Nhờ vào sự đa dạng về mặt lịch sử và địa lý, kiến trúc Tây Ban Nha đã ra đời từ nhiều dòng ảnh hưởng khác nhau.
Kể từ khi những người Iberia đầu tiên cư ngụ trên bán đảo Iberia vào khoảng năm 4000 trước Công nguyên, sau đó tới những người Iberia gốc Celtic, kiến trúc Iberia bắt đầu định hình song song với những trường phái kiến trúc khác khắp khu vực Địa Trung Hải và Bắc Âu.
Khi những người La Mã đến đây, họ để lại đằng sau một số công trình nổi tiếng tại Hispania và lúc này, nền kiến trúc mới thật sự phát triển. Người Visigoth đến, đem lại sự biến cách sâu sắc trong kỹ thuật xây dựng, vốn tương tự những nơi khác tại đế chế cũ. Cuộc xâm lược của người Marốc vào năm 711 sau Công nguyên đã dẫn đến sự thay đổi triệt để và trong suốt tám thế kỷ sau đó, nền văn hóa cũng như kiến trúc đã đạt được những bước tiến lớn. Ví dụ, dưới triều đại Umayyad, Cordoba được thành lập làm thủ phủ văn hóa. Đồng thời, các vương quốc Thiên chúa giáo hợp nhất lại và phát triển lối kiến trúc của riêng mình. Ban đầu, nó hoàn toàn cách biệt với ảnh hưởng kiến trúc châu Âu, sau đó sáp nhập với dòng kiến trúc Romanesque và Gothique. Các trường phái này đạt đến tuyệt đỉnh với rất nhiều công trình kiến trúc điển hình dọc ngang khắp lãnh thổ. Lối kiến trúc Modéjar, tồn tại từ thế kỷ 12 đến thế kỷ thứ 17, đặc điểm của nó là sự pha trộn ảnh hưởng của các dòng văn hóa Ả rập và châu Âu.
Khoảng cuối thế kỷ thứ 15, trước khi chịu ảnh hưởng của châu Mỹ La tinh với lối kiến trúc thời kỳ thuộc địa, tự bản thân đất nước Tây Ban Nha cũng đã trải qua kiến trúc thời Phục hưng, hầu hết là do các kiến trúc sư địa phương triển khai. Lối kiến trúc Baroque Tây Ban Nha nổi bật nhờ vào nét trang trí hoa mỹ kiểu Churriguesque, phát triển hoàn toàn tách biệt khỏi các dòng ảnh hưởng trên thế giới sau này. Lối kiến trúc thuộc địa, vốn tồn tại suốt bao thế kỷ, vẫn còn có ảnh hưởng mạnh mẽ tại Châu Mỹ La tinh. Trường phái tân cổ điển đạt đến đỉnh cao với công trình của kiến trúc sư Juan de Villanueva và các học trò của ông.
Naveta des Tudons ở Menorca (Ảnh: wikipedia)
Thế kỷ thứ mười chín có hai diện mạo: các cố gắng kỹ thuật để có được một ngôn ngữ mới và đem lại những cải thiện về mặt kết cấu, sử dụng sắt và thủy tinh làm loại vật liệu xây dựng chính, và sự chú trọng học thuật, trước hết vào chủ phong cách chiết trung và phục hưng, sau đến phong cách địa phương. Sự xuất hiện của phong cách tân thời trong quá trình xây dựng các trường đấu đã tạo ra những công trình tiêu biểu như là Gaudi và hầu hết lối kiến trúc trong thế kỷ thứ hai mươi. Các nhóm như GATEPAC đi đầu trong phong cách quốc tế. Hiện nay, Tây Ban Nha đang trải qua một cuộc cách mạng trong ngành kiến trúc đương đại và các kiến trúc sư Tây Ban Nha chẳng hạn Rafael Moneo, Santiago Calatrava, Ricardo Bofill cũng như nhiều người khác đã tạo dựng được danh tiếng trên khắp thế giới.
Vì có liên hệ đến mỹ thuật, nhiều địa điểm kiến trúc ở Tây Ban Nha, và thậm chí cả những khu vực trong các thành phố, đã được UNESCO bình chọn là Di Sản Thế Giới. Tây Ban Nha có số lượng địa điểm Di Sản Thế Giới cao thứ nhì quốc tế, chỉ sau Ý. Những công trình này được đưa vào danh sách những địa điểm Di Sản Thế Giới Châu Âu: Tây Ban Nha.
Thời kỳ tiền sử:
*Kiến trúc Megalith:
Vào thời kỳ đồ đá, kiến trúc Megalith được mở rộng nhất tại bán đảo Iberia là mộ đá. Cách bài trí của các phòng tang lễ này có dạng giả tròn hay hình thang, làm bằng những tảng đá lớn kết dính trên mặt đất, tảng này chồng lên tảng kia, tạo thành một cái mái. Khi môn hình học topo mở ra, hành lang làm lối ra vào xuất hiện, cao lên dần và rồi rộng gần bằng căn phòng. Những hành lang được lợp mái và những mái vòm giả rất phổ biến trong giai đoạn phát triển nhất. Quần thể Antequera bao gồm những mộ đá lớn nhất ở châu Âu. Khu vực mộ đá được bảo tồn tốt nhất, Cueva de Menga, sâu 25 mét, cao 4 mét, được tạo thành từ ba mươi hai mộ đá megalith.
Ở đảo Balearic, người ta có thể tìm thấy những hình mẫu kiến trúc điển hình được bảo tồn tốt nhất, ở đây có ba loại công trình xây dựng: taula hình chữ T (taula là nơi thờ phụng có vào thời kỳ đồ đồng ở đảo Balearic ở đảo Milorca và Majorca, cao khoảng 4 mét, là khối nằm ngang, có cột chống làm bằng nhiều tảng đá ghép lại), talayot và naveta. Talayot là các tháp phòng ngự có dạng hình nón hoặc hình kim tự tháp cột ở giữa. Các naveta – dạng hầm mộ kiểu megalith, được xây bằng tảng đá lớn và thường có hình dạng giống như thân tàu, với mũi tàu hình tròn còn đuôi tàu hình vuông có trên đảo Malorca vào đầu thời kỳ đồ đồng khoảng từ năm 2200 đên 1500 trước Công nguyên.
*Kiến trúc Celtic và Iberia:
Những công trình xây dựng đặc sắc nhất của người Celtic là các Castro, những ngôi làng có tường vây quanh, thường ở trên đỉnh núi hoặc đỉnh đồi. Chúng thường được xây dựng nhiều ở tại các vùng người Celtic chiếm đóng, ở thung lũng Duero và Galicia. Điển hình hơn cả là Las Cogotas, ở Avila và khu Castro Santa Tecla, ở Pontevedra.
Những ngôi nhà bên trong các Castro này thường dài từ 3,5 đến 5 mét, hầu hết là hình tròn, một số có dạng hình chữ nhật, bằng đá, mái lợp rạ, dựa trên một cái cột gỗ ngay giữa nhà. Đường xá phần nào có dạng hình chữ nhật, gợi cho người ta ý tưởng về một tổ chức trung tâm.
Những thành phố do người Arevaco xây dựng có liên hệ với văn hóa của người Iberia, một số đã đạt đến trình độ phát triển đô thị đáng kể như Numantia. Số khác sơ khai hơn, được đào trong đá, như thành phố Termantia.
Khu định cư Celtic ở Galicia (Ảnh: wikipedia)
Thời kỳ La Mã
*Phát triển đô thị:
Cuộc chinh phục Hispania của người La Mã, bắt đầu vào năm 218 trước Công Nguyên, có thể được xem là quá trình La Mã hóa bán đảo Iberia triệt để nhất. Dân địa phương hấp thụ sâu sắc nền văn hóa La Mã. Những doanh trại quân đội cũ, các khu định cư của người Hy Lạp, Iberia, Phoenicien được biến đổi thành những thành phố lớn nơi quá trình đô thị hóa phát triển rất cao tại các tỉnh. Emerita Augusta ở Lusitania, Corduba, Italica, Hispalis, Gades ở Baetica, Tarraco, Caesar Augusta, Asturica Augusta, Legio Septima Gemina và Lucus Augusti ở Tarraconensis là một số trong số những thành phố quan trọng nhất, nối kết thông qua tuyến đường bộ. Quá trình phát trỉển xây dựng bao gồm một số công trình có chất lượng tương đương với những công trình ở thủ đô Rome.
Rạp hát Roman ở Mérida (Ảnh: wikipedia)
Các công trình xây dựng:
Kỹ thuật xây dựng dân sự hiện diện trong một số công trình gây ấn tượng mạnh mẽ chẳng hạn như cống dẫn nước Segovia hoặc Merida, trong các cây cầu như cầu Alcantera hay cầu Merida bắt qua sông Tagus, hoặc cầu Cordoba bắt qua sông Guadalquivir. Các công trình xây dựng dân sự phát triển rộng rãi ở Hispania dưới triều đại của hoàng đế Trajan (từ năm 98 đến năm 117 sau Công nguyên). Người ta cũng đã xây dựng những ngọn hải đăng, ngày nay vẫn còn được sử dụng, như tháp Hercules ở La Coruna.
Điển hình của lối kiến trúc Ludic là một số tòa nhà chẳng hạn nhà hát Merida, Sagunto hoặc Tiermes, các nhà hát đôi như các nhà hát ở Merida, Italica, Tarraco, hoặc Segobriga và những đấu trường được xây dựng ở Merida, Cordoba, Toledo, Sagunto và nhiều công trình khác nữa.
Các công trình kiến trúc tôn giáo cũng hiện diện khắp bán đảo, trong số đó chúng ta có thể kể đến các đền thờ ở Cordoba, Merida, Talavera Vieja. Những công trình tang lễ chính là tháp Escipiones ởTarragona, công trình Zalamea de la Serena có hai cột ở Badajoz và các lăng mộ của gia đình Atilii ở Sádaba và của gia đình Fabara ở Ampurias, cả hai đều ở Zaragoza. Cổng Khải Hoàn Môn ở Caparra (bốn mặt), Bará và Medinaceli.
Cây cầu Alcántara thời Trajan (Ảnh: wikipedia)
*Thời kỳ tiền La Mã:
Cụm từ “tiền La Mã” dùng để nói tới nghệ thuật Thiên chúa giáo sau thời kỳ cổ đại, trước thời kỳ nghệ thuật và kiến trúc Romaesque, bao hàm nhiều phong cách mỹ thuật không đồng nhất vì chúng được phát triển ở các nước khác nhau và bởi các nền văn hóa khác nhau. Lãnh thổ Tây Ban Nha lấy làm kiêu hãnh về sự đa dạng kiến trúc thời kỳ tiền La Mã(pre-Promaesque). Một số nhánh, chẳng hạn như nghệ thuật Asturia đã đạt được những mức độ tinh tế cao trong thời đại đó và trong bối cảnh văn hóa.
*Lối kiến trúc Visigothic:
*Nghệ thuật Asturia:
Vương quốc Asturia ra xuất hiện vào năm 718, khi các bộ lạc Astur tập hợp lại thành nhóm, quyết định chỉ định Pelayo làm thủ lĩnh. Pelayo tập hợp các bộ lạc địa phương và những người Visigoth đi lánh nạn dưới trướng của mình, với ý định dần dần khôi phục lại triều đại Gothic.
Trường phái Asturia tiền La Mã là nét kiến trúc độc đáo tại Tây Ban Nha, nó vừa kết hợp các yếu tố từ các trường phái khác như Visigothic và các truyền thống địa phương, vừa tạo ra và phát triển bản sắc, nét riêng của mình, đạt được mức độ tinh tế đáng kể, không chỉ về khía cạnh xây dựng, mà còn về khía cạnh thẩm mỹ.
Xét về khía cạnh phát triển, ngay từ khi xuất hiện, trường phái tiền La Mã Asturia đã đi theo một trình tự phong cách nghệ thuật có liên hệ mật thiết với sự phát triển chính trị của vương quốc, các giai đoạn của nó hình thành đường nét rất rõ ràng. Chủ yếu, đây là lối kiến trúc triều đình, với 5 giai đoạn nổi bật: giai đoạn thứ nhất (737-791) từ triều đại của vua Fáfila to Vermudo I. Giai đoạn hai bao gồm triều đại của vua Alfonso đệ nhị (791-842), giai đoạn bước vào xác định phong cách. Hai giai đoạn đầu tiền này có tên là tiền Ramirense. Ngôi nhà thờ quan trọng nhất được xây dựng theo trường phái này là San Julián de los Prados, ở Oviedo,với một số lượng lớn các bức bích họa phức hợp trên tường rất thú vị, có liên hệ mật thiết với nghệ thuật vẽ tranh tường ở La Mã. Lưới mắt cáo và cửa sổ ba phần ở đầu thánh đường xuất hiện lần đầu tiên vào giai đoạn này. Các phòng thánh ở thánh đường Oviedo, San Pedro de Nora và Santa María de Bendones cũng được xây dựng theo lối kiến trúc này.
Giai đoạn thứ ba bao gồm triều đại của vua Ramiro đệ nhất (842-850) và vua Ordoño I (850-866). Người ta gọi đây là thời kỳ Ramirense và đây cũng được xem là tột đỉnh của phong cách này, nhờ vào công trình của một kiến trúc sư vô danh, người đã mang lại những thành tựu về mặt trang trí và cấu trúc, ví dụ như mái vòm hình ống, hay việc nhất quán sử dụng kiểu cửa tò vò theo chiều ngang và trụ ốp tường, làm cho phong cách này khá giống những công trình kiến trúc La Mã hai thế kỷ sau đó. Một số nhà văn đã chỉ ra ảnh hưởng chưa được giải thích của Syrie trong lối trang trí phong phú. Trong thời kỳ này, hầu hết các kiệt tác thuộc phong cách này đã nở rộ: các cung điện ở núi Naranco và nhà thờ Santa Cristina de Lena.
Giai đoạn thứ tư thuộc về triều đại của vua Alfonso III (866-910), khi nghệ thuật Mozarab đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lối kiến trúc Asturia và việc sử dụng khung tò vò kiểu móng ngựa trở nên phổ biến. Giai đoạn thứ năm, cũng là giai đoạn cuối cùng xảy ra cùng lúc với việc di chuyển triều đình đến León, sự biến mất của vương quốc Asturia và đồng thời của trường phái kiến trúc Asturia tiền La Mã.
Phần 2
*Kiến trúc phục hưng:
Santa María del Naranco (Ảnh: wikipedia)
Từ cuối thế kỷ thứ chín đến đầu thế kỷ thứ mười một, người ta xây dựng một số nhà thờ ở các vương quốc Thiên chúa giáo phía Bắc. Nhiều người sai lầm cho rằng chúng thuộc về lối kiến trúc Mozarabic. Đây là sự tóm lược những yếu tố khác nhau được trích lọc ra, được phân bố không đều đôi khi chiếm ưu thế so với đường nét Thiên chúa giáo cổ có nguồn gốc Visigothic và Asturia, trong khi có lúc khác lại nhấn mạnh vào ấn tượng kiến trúc Hồi giáo.
Các nhà thờ thường có dạng pháp đình La Mã (basilica) và tập trung, đôi khi những nơi đọc kinh đối diện nhau. Những nhà nguyện chính bên ngoài có hình chữ nhật, bên trong là hình bán nguyệt. Người ta sử dụng khung vòm hình móng ngựa gợi nhớ đến kiến trúc Hồi giáo song có phần dốc và kín hơn so với trường phái Visigothic cũng như Alfiz. Những cửa sổ cặp ba kiểu truyền thống Asturia và các cột tụ lại thành nhóm tạo thành các cột hỗn hợp, với đầu cột kiểu Corin được trang trí bằng những đường nét cách điệu.
Kiểu trang trí này có nét tương đồng với trường phái Visigothic, chủ yếu dựa vào đường xoắn ốc, chữ vạn, các đề tài cây cối, muôn thú tạo thành những đường viền nổi thanh nhã. Và cũng có nét cách tân, chẳng hạn như những đòn chìa lớn có dạng hình thùy đỡ cho các mái hiên rất dễ thấy.
Người ta có thể quan sát và nhận ra sự tinh thông kỹ thuật trong quá trình xây dựng, sử dụng đá khối, tường được gia cố bằng trụ ốp bên ngoài, đầu tường được che bằng khung vòm chia thành từng đoạn, bao gồm cả mái vòm hình ống theo kiểu truyền thống.
Nội thất của San Julian de los Prados
*Trường phái kiến trúc Al-Andalus:
*Caliphate ở Cordoba:
Việc quân đội người Marốc của Musa ibn Nusair và Tariq ibn Ziyad chinh phục vùng đất Hispania xưa cũ, lật đổ triều đại của vua Umayad tại Damascus, đã dẫn đến sự kiện ông hoàng duy nhất còn sống sót thoát khỏi Abbasids, Abd ar-Rahman I thành lập một tiểu vương quốc Ả Rập độc lập (Emirate), tạo dựng kinh đô ở Cordoba. Từ năm 750 đến năm 1009, nơi đây đã trở thành thủ phủ văn hóa phương Tây. Các công trình kiến trúc xây dựng ở Al-Andalus dưới các triều đại Umayad khởi sinh từ trường phái kiến trúc Damascus cộng thêm nét thẩm mỹ chắt lọc ra từ ảnh hưởng địa phương: mái vòm hình móng ngựa, đây là nét đặc trưng của lối kiến trúc Tây Ban Nha -Ả Rập, được rút ra từ trường phái Visigothic. Từ phương Đông, các kiến trúc sư, các nghệ sĩ, thợ thủ công đến để xây dựng những thành phố như Medina Azahara với vẻ tráng lệ mà các vương quốc châu Âu thời đó hẳn chưa bao giờ tưởng tượng ra nổi.
Công trình xây dựng nổi bật nhất dưới triều đại Umayhad ở Cordoba là Đền thờ Hồi Giáo lớn, được các vị vua Abd ar-Rahman I, Abd ar-Rahman II, Al-Hakam II và Al-Mansur cho xây dựng trong suốt nhiều giai đoạn liên tiếp.
*Các Taifa:
Caliphate biến mất và bị xé nhỏ thành nhiều tiểu vương quốc gọi là Taifa. Sự yếu kém về mặt chính trị của họ đi kèm sự thoái trào văn hóa, và trong khi các vương quốc Thiên chúa giáo tiến nhanh, các taifa vẫn trung thành với danh tiếng, đường nét kiến trúc Cordoba. Người ta có thể cảm nhận sự thoái trào này trong kỹ thuật xây dựng và trong việc sử dụng nguyên vật liệu, mặc dù trong phong cách trang trí thì không nhiều. Người ta sử dụng rất nhiều chi tiết vấu hình lá trong các mái vòm nhưng thưa thớt hơn, biến thành những đường diềm. Và tất cả các yếu tố Caliphal đều được nhấn mạnh. Một số công trình kiến trúc lộng lẫy kiểu Taifa vẫn tồn tại đến ngày nay: chẳng hạn như cung điện Aljafería, ở Zaragoza, hay đền thờ Hồi giáo nhỏ ở Bab-Mardum, ở Toledo, sau này trở thành một trong những điển hình đầu tiên của lối kiến trúc Mudéjar (di sản Cristo de la Luz).
Công trình Maqsura ở đền thờ Hồi giáo lớn Córdoba
*Almoravids và Almohads:
Năm 1086, người Almoravid từ Bắc Phi đến xâm lược xứ sở Al-Andalus, và thống nhất các taifa lại dưới quyền mình. Họ phát triển trường phái kiến trúc của riêng mình, nhưng do cuộc xâm lăng sau đó của người Almohad, nên rất ít công trình còn sót lại. Họ chủ trương áp đặt tư tưởng Hồi giáo cực chính thống và phá hủy hầu hết các công trình xây dựng rất có ý nghĩa của người Almoravid, với Medina Azahara và các công trình khác xây dựng tại Caliphate. Đường nét kiến trúc của họ cực kỳ nghiêm trang và trơ trụi, với gạch làm vât liệu xây dựng chính. Kiểu trang trí hầu như chỉ ở bề mặt của họ, sebka, dựa vào những chấn song hình thoi. Người Almohad cũng sử dụng kiểu trang trí hình lá cọ nhưng chẳng qua cũng chỉ là sự đơn giản hóa dạng lá cọ vốn được trang trí nhiều hơn của người Almoravid. Theo thời gian, trong mỹ thuật có nhiều đường nét trang trí hơn một chút. Công trình kiến trúc nổi tiếng nhất của người Almohad là Giralda, một cái tháp cũ ở đền thờ Hồi giáo Seville. Cũng được xếp hạng như Mudéjar nhưng mang nặng nét thẩm mỹ Almohad là ngôi giáo đường Do thái Santa Maria la Blanca ở Toledo, đây là một hình mẫu hiếm hoi về sự hợp tác kiến trúc của ba nền văn hóa Tây Ban Nha thời trung cổ.
*Kiến trúc Nasrid của vương quốc Granada:
Sau khi vương quốc Almohad tan rã, các vương quốc của người Marốc nằm rải rác ở phía Nam bán đảo được tập hợp lại và năm 1237, các vị vua Nasrid đã thành lập kinh đô tại Granada. Nét kiến trúc họ sử dụng ở đây thuộc dạng phong phú, đa dạng nhất mà người Hồi giáo đã tạo ra trong bất kỳ thời đại nào. Điều này có được phần nhiều nhờ vào di sản văn hóa, từ phong cách xưa cũ của người Marốc tại Al-Andalus mà người Nasrid áp dụng một cách thoáng đạt và có mối liên hệ gần gũi với các vương quốc Thiên chúa giáo ở phía Bắc. Các cung điện Alhambra và Generalife là những công trình xây dựng nổi bật nhất vào thời kỳ này. Các yếu tố trang trí và cấu trúc được lấy từ lối kiến trúc Cordoba (các mái vòm hình móng ngựa) và Almohad (sebka và lá cọ), nhưng cũng có một số do họ sáng tạo ra như đầu cột hình trụ, hình lăng trụ và các khuôn vòm mocarábe theo dạng kết hợp vui mắt giữa không gian bên trong và không gian bên ngoài, giữa nghệ thuật làm vườn và kiến trúc, để đem lại sự hài hòa về mọi mặt. Không giống như nét kiến trúc Umayhad, vốn sử dụng vật liệu nhập khẩu đắt tiền, người Nasrid chỉ sử dụng những vật liệu khiêm tốn: đất sét, thạch cao và gỗ. Tuy nhiên, người xem rốt cuộc lại thấy nó rất bí ẩn và phức tạp. Sử dụng nhiều họa tiết trang trí, áp dụng bóng, sáng một cách khéo léo và đưa nước vào trong kiến trúc là một số đặc điểm chính của phong cách này. Người ta cũng áp dụng hình thức khắc văn tự lên tường những căn phòng khác nhau, với những bài thơ hàm ý nói đến vẻ đẹp của khoảng không.
Aljafería ở Zaragoza
*Phong cách Mudéjar:
Kiến trúc Marốc và của người Andalusia bản xứ, những người ở trên lãnh thổ Thiên chúa giáo nhưng không chịu cải đạo, được gọi là phong cách Mudéjar. Trường phái này chủ yếu phát triển từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ thứ 16, chịu nhiều ảnh hưởng gu của người Marốc cũng như tài nghệ của họ, nhưng công trình xây lên lại dành cho những chủ nhân Thiên chúa giáo. Vì thế, đây không phải là phong cách thuần nhất: các kiến trúc sư Mudéjar thường xuyên kết hợp kỹ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật của mình với các phong cách khác, tùy vào thời điểm lịch sử. Vì thế, chúng ta nói đến Mudéjar, nhưng cũng là hàm ý Mudéjar La Mã, Mudéjar Gothique hoặc Mudéjar thời kỳ Phục hưng.
Phong cách Mudéjar: đó là sự cộng sinh của các kỹ thuật xây dựng và sự am hiểu kiến trúc, ra đời từ những nền văn hóa Hồi giáo, Cơ đốc, Do thái sống cạnh nhau, là phong cách kiến trúc nổi bật của thế kỷ thứ mười hai. Đặc điểm của phong cách này là việc sử dụng gạch làm vật liệu xây dựng chính. Mudéjar không tạo ra những kết cấu mới (không giống như trường phái Roman hay Gothic), mà diễn giải các phong cách văn hóa phương Tây thông qua các dòng ảnh hưởng Hồi giáo. Đặc trưng hình học, theo phong cách Hồi giáo rõ rệt, nổi bật trong các công trình phụ sử dụng vật liệu rẻ tiền nhưng được xây dựng rất công phu: công trình lợp ngói, công trình lát gạch, khắc gỗ, khắc thạch cao và kim loại trang trí. Thậm chí sau khi người ta không còn thuê mướn người Hồi giáo nữa, sự đóng góp của họ đa phần vẫn giữ một vị trí trọn vẹn trong nền kiến trúc Tây Ban Nha.
Sân bên trong của công trình Dolls ở Alcázar, thành phố Seville
Người ta chấp nhận rằng phong cách kiến trúc Mudéjar ra đời ở Sahagún. Mudéjar mở rộng đến những nơi còn lại của vương quốc León, Toledo, Ávila, Segovia và sau đó đến Andalusia, đặc biệt Seville và Grenada. Những căn phòng theo phong cách Mudéjar tại tòa nhà Alcázar ở Seville, mặc dù được xếp loại thuộc trường phái này, nhưng nó mối quan hệ gần gũi với phong cách Nasrid Alhambra hơn những tòa nhà khác cùng phong cách, do Pedro ở Castille tạo dựng. Ông là người đã mang các kiến trúc sư từ Granada đến, họ ít chịu ảnh hưởng Thiên Chúa giáo. Người ta cũng tìm thấy các trung tâm nghệ thuật Mudéjar ở những thành phố khác, như Toro, Cuéllar, Arévalo và Madrigal de las Altas Torres. Phong cách này phát triển rất mạnh ở Aragon, đặc biệt ở Teruel trong suốt thế kỷ mười ba, mười bốn, và mười lăm, nơi người ta xây dựng một loạt các tòa tháp uy nghi theo phong cách Mudéjar. Ở Casa Pilatos (Seville), tu viện Santa Clara, ở Tordesillas, hoặc các nhà thờ ở Toledo cũng có những công trình kiến trúc đẹp đẽ kiểu Mudéjar, đây là một trong những trung tâm kiến trúc Mudéjar cổ xưa nhất và nổi tiếng nhất. Tại Toledo, các giáo đường Do thái Santa María la Blanca và El Tránsito (cả hai đều thuộc dòng Mudejar dù không phải Thiên chúa giáo) xứng đáng được quan tâm đặc biệt.
Phần 3
*Thời kỳ Romanesque (La Mã):
Phong cách Romanesque phát triển lần đầu tiên ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười và thế kỷ thứ mười một, trước khi có ảnh hưởng của Cluny ở Lérida, Barcelona, Tarragona và Huesca và ở rặng núi Pyrenees, đồng thời ở miền Bắc nước Ý. Đây là cái được gọi “Roman thời đầu” hoặc “Lombard Romanesque thời đầu”. Đây là một trường phái kiến trúc rất nguyên sơ, đặc trưng của nó là những bức tường dày, thiếu tác phẩm điêu khắc và sự hiện diện của các khung vòm trang trí tiết tấu, tiêu biểu là các nhà thờ ở Valle de Bohí.
Phong cách kiến trúc Roman trọn vẹn đến cùng với dòng ảnh hưởng Cluny qua con đường hành hương Saint James, kết thúc ở thánh đường Santiago de Compostela. Điển hình của lối kiến trúc Romanesque Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai là thánh đường Jaca, với phần hậu cung bài trí đặc trưng, cùng với kiểu trang trí “bàn cờ” thành nhiều sọc, được gọi là taqueado jaqués. Khi các vương quốc Thiên chúa giáo tiến về phía Nam, trường phái này lan khắp các vùng đất bị chinh phục, với một số biến tấu. Kiểu Romanesque Tây Ban Nha cũng cho thấy có ảnh hưởng của các phong cách Tây Ban Nha tiền Roman, chủ yếu Asturia và Morazabic. Nhưng cũng có dòng ảnh hưởng Ma rốc mạnh mẽ, đặc biệt các mái vòm ở đền thờ Hồi giáo Cordoba và các khung vòm trang trí hình lá. Vào thế kỷ thứ mười ba, một số nhà thờ có phong cách kiến trúc xen kẽ giữa Romanesque và Gothic. Aragón, Navarra và Castile-Leon nằm trong số những khu vực kiến trúc Roman Tây Ban Nha đẹp nhất.
Nội thất nhà thờ Santiago de Compostela
*Thời kỳ Gothic:
Phong cách Gothic đến đất nước Tây Ban Nha, là kết quả của ảnh hưởng châu Âu vào thế kỷ thứ mười hai, khi trường phái Romanesque cũ xen kẽ với cách diễn đạt kiến trúc Gothic thuần túy, chẳng hạn như thánh đường Avila. Trường phái High Gothic phát triển vào thế kỷ thứ mười ba thông qua con đường hành hương mang tên thánh James, cùng với một số thánh đường thuộc phong cách Gothic thuần túy nhất, chịu ảnh hưởng của Đức và Pháp: các thánh đường Burgos, León và Toledo.
Các phong cách Gothic quan trọng nhất hậu thế kỷ thứ mười ba tại Tây Ban Nha là Levantino và Isabelline Gothic. Đặc điểm của trường phái Levantino Gothic là kết cấu và sự hợp nhất về không gian, với những kiệt tác như thánh đường La Seu ở Palma de Mallorca, khu chợ tơ lụa Valencia, (Lonja de Valencia), và Santa Maria del Mar (Barcelona).
Isabelline Gothic, được hình thành trong suốt thời đại của các vị vua Thiên chúa giáo, là một phần trong quá trình chuyển tiếp sang kiến trúc thời Phục Hưng., nhưng cũng chống lại mạnh mẽ trường phái phục hưng của Ý. Đỉnh cao của trường phái này là nhà thờ Saint John of the Kings ở Toledo và nhà nguyện hoàng gia ở Granada.
*Thời kỳ Phục hưng:
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ mười lăm, trường phái Phục hưng bắt đầu được ghép chung vào các công trình kiến trúc Gothic. Phong cách bắt đầu lan rộng chủ yếu nhờ vào các kiến trúc sư địa phương: đâylà nguyên nhân ra đời của trường phái Phục hưng Tây Ban Nha đặc biệt, đem ảnh hưởng của kiến trúc miền Nam nước Ý đến, nhiều khi từ sách và tranh ảnh có minh họa, pha lẫn Gothic truyền thống và trường phái địa phương. Phong cách mới được gọi là Plateresque, vì có những mặt tiền được trang trí cực kỳ hoa mỹ, gợi người ta nhớ đến các motif trang trí các chi tiết phức tạp trong tác phẩm của những người thợ bạc – các “Platero”. Các kiểu cổ điển và các motif trang trí cột đèn (candelieri) được kết hợp một cách phóng khoáng trong tổng thể đối xứng.
Trong bối cảnh đó, cung điện của vua Charles V, do kiến trúc sư Pedro Machuca ở Granada thiết kế, được cho là một thành tựu bất ngờ của trường phái Phục hưng đang ở đỉnh cao vào thời kỳ này. Người ta có thể xác định rằng cung điện này theo phong cách cầu kỳ, do ở đây có sử dụng một cách tinh thông ngôn ngữ cổ điển và những nét thẩm mỹ độc đáo. Nó được xây dựng trước khi những công trình chính của Michelangelo và Palladio ra đời. Ảnh hưởng của phong cách này rất giới hạn, và bị hiểu sai. Dạng Plateresque được dùng trong bối cảnh chung.
Bao thập niên đã qua đi, ảnh hưởng của trường phái Gothic biến mất. Việc nghiên cứu chủ nghĩa kinh điển chính thống đã đạt đến những đỉnh cao. Mặc dù Plateresco là một từ nói chung dùng để chỉ hầu hết các tác phẩm kiến trúc cuối thế kỷ thứ mười lăm, nửa đầu thế kỷ thứ mười sáu, một số kiến trúc sư tạo dựng được phong cách riêng nhã nhặn hơn, chẳng hạn Dieo Siloe và Rodrigo Gil de Hontañón.
Công trình nổi bật của trường phái Phục hưng Tây Ban Nha là tu viện hoàng gia El Escorial do hai kiến trúc sư Juan Bautista de Toledo và Juan de Herrera thiết kế, nơi đây, phong cách cực kỳ trang nhã lấn át sự trung thành sâu sắc với nghệ thuật thành Rome cổ xưa. Ảnh hưởng từ những mái nhà vùng Flander, chủ nghĩa tượng trưng trong cách trang trí hiếm hoi cũng như nét cắt chính xác trên đá granite, tạo thành điểm cơ bản của một phong cách mới ảnh hưởng đến kiến trúc Tây Ban Nha suốt một thế kỷ : phong cách Herrerian. Một học trò của Herrera, Juan Bautista Villalpando cũng chịu ảnh hưởng vì diễn giải một bài văn tự được phục chế gần đây của Vitruvius đã gợi ra những ý tưởng về nguồn gốc của kiểu kiến trúc cổ điển trong đền thờ Solomon.
Nhà thờ lớn Burgos
*Thời kỳ Baroque:
Khi các dòng ảnh hưởng Baroque của Ý vượt qua rặng núi Pyrene, chúng dần dần thay thế phần lớn đường nét kiến trúc cổ điển có hạn chế của Juan de Herrera, vốn đã là một trào lưu từ cuối thế kỷ thứ mười sáu. Vào đầu năm 1667, các mặt tiền của thánh đường Granada (do Alonso Cano thiết kế) và thánh đường Jaen (do Eufrasio López de Rojas thiết kế) đã cho thấy sự tinh thông của người nghệ sĩ trong cách diễn đạt những motif truyền thống của kiến trúc thánh đường Tây Ban Nha thành cách diễn đạt thẩm mỹ Baroque.
Trường phái Baroque bản địa xuất phát từ Herrera theo với cách thức xây gạch theo truyền thống phát triển tại Madrid trong suốt thế kỷ thứ mười bảy. Điển hình là Plaza Mayor và Major House.
Đối lập với nghệ thuật Bắc Âu, nghệ thuật Tây Ban Nha nghiêng về cảm xúc nhiều hơn là đáp ứng trí tuệ. Gia đình Churriguera, chuyên về thiết kế bàn thờ và hậu bộ bệ thờ, đã đi ngược lại sự trang nhã trong trường phái cổ điển Herreresque và sử dụng nhiều cách trang trí mặt tiền phức tạp, cường điệu và gần như đồng bóng, được biết với cái tên trường phái Churrigueresque. Trong vòng nửa thế kỷ, họ đã biến Salamanca thành một thành phố điển hình theo trường phái Churrigueresque.
Công trình El Escorial
Sự phát triển của trường phái này trải qua ba giai đoạn. Từ năm 1860 đến năm 1720, gia đình Churriguera đã cho phổ biến kiểu pha lẫn giữa những cây cột Solomon và kiểu kiến trúc hỗn hợp của Guarini, được biết đến như là “kiểu cao cấp”. Giữa năm 1720 và 1760, những cột trụ kiểu Churrigueresque, tiếng Tây Ban Nha gọi là espirite, dưới dạng hình nón đảo ngược, hoặc hình tháp, biến thành những yếu tố trung tâm trong quá trình trang trí. Những năm từ 1760 đến 1780, người ta chứng kiến sự thay đổi dần dần trong sở thích, từ nét xoắn và trang trí quá nhiều sang sự cân xứng kiểu tân cổ điển và trang nhã.
Hai trong số những sáng tạo bắt mắt nhất của trường phái Baroque Tây Ban Nha chính là mặt tiền hoành tráng của trường đại học Valladolid (Diego Tome, 1719) và Hospicio de San Fernando ở Madrid (Pedro de Ribera, 1722). Nét cong quá tay trong các công trình này dường như báo trước sự xuất hiện của Antonio Gaudi và Art Nouveau- Tân nghệ thuật. Trong trường hợp này cũng như trong các trường hợp khác, thiết kế bao gồm những yếu tố trang trí và kiến tạo, ít liên hệ đến kết cấu và chức năng. Tuy nhiên, trường phái Churrigueresque Baroque đem lại một số kết hợp ấn tượng nhất của không gian và ánh sáng với những công trình như nhà tế bần Granada, được xem như là điển hình hoàn hảo của các phong cách Churrigueresque, được áp dụng cho các khoảng không gian bên trong, hoặc phong cách Transparente (trong suốt) của thánh đường Toledo, do kiến trúc sư Narciso Tomé thiết kế. Nơi đây, kiến trúc và điêu khắc được hợp nhất, tạo nên những hiệu ứng ánh sáng đáng kể, rất ấn tượng.
Mặt tiền nhà thờ Santiago de Compostela
Quảng trường hoàng gia ở Madrid và những thiết kế của Paseo del Prado (Salón del Prado và Alcalá Doorgate) trong cùng thành phố, xứng đáng có sự chú ý đặc biệt. Những công trình này được cho xây dựng theo phong cách Baroque quốc tế trang nhã, thường bị hiểu sai là phong cách tân cổ điển, bởi các vị vua dòng Bourbon, Philips V và Charles III. Các cung điện hoàng gia ở La Granja de San Ildefonso, ở Segovia, và Aranjuez ở Madrid là điển hình của lối kiến trúc Baroque và nghệ thuật làm vườn, chịu ảnh hưởng đáng kể của Pháp (La Granja được biết đến như là cung điện Versailles của Tây Ban Nha), với những khái niệm không gian theo kiểu địa phương, mà xét về một số phương diện, cho thấy đây là di sản từ người Marốc chiếm đóng.
Trường phái Rococo đến với Tây Ban Nha lần đầu tiên qua công trình thánh đường Murcia, mặt Tây, vào năm 1733. Người theo trường phái Rococo Tây Ban Nha thành công nhất là một bậc thầy người bản xứ, Ventura Rodríguez, ông chịu trách nhiệm kiến trúc phần nội thất lộng lẫy đến lóa mắt của thánh đường kiểu La Mã Basilica of Our Lady of the Pillar tại Saragossa (1750).
Phần 4- Phần cuối
*Trường phái kiến trúc thuộc địa Tây Ban Nha:
Sự kết hợp của những dòng ảnh hưởng từ bản địa châu Mỹ và Ma-rốc trong trang trí với sự truyền tả cực kỳ diễn cảm của trường phái Churrigueresque có thể là lý do giải thích cho đặc tính đa dạng và đậm đặc trong phong các Baroque tại các thuộc địa của người Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Thậm chí còn hơn cả bản sao Tây Ban Nha, trường phái Baroque châu Mỹ phát triển riêng thành phong cách trang trí stucco. Mặt tiền tháp đôi trong nhiều thánh đường xây dựng ở châu Mỹ vào thế kỷ thứ mười bảy có nguồn gốc từ thời Trung cổ và mãi đến năm 1664, trường phái Baroque hoàn chỉnh mới xuất hiện khi người ta xây dựng khu đựng thánh tích các thầy tu dòng Tên Plaza des Armas tại Cusco.
Nhà thờ Santa Prisca ở Taxco, một công trình Churriguesque theo kiểu Mexico
Trường phái Baroque ở Peru phát triển rất mạnh, điển hình là tu viện San Franciso ở Lima ( 1673) với mặt tiền màu sẫm, trang trí phức tạp nằm giữa hai tòa tháp xây bằng đá vàng có ở địa phương. Trong khi phong cách Baroque nông thôn tại các đoàn truyền giáo của những tu sĩ dòng Tên (estancia) ở Cordoba, Argentina theo kiểu của Il Gesù, các phong cách mestizo của các tỉnh lỵ lại nổi bật ở Arequipa, Potosí và La Paz. Vào thế kỷ thứ mười tám, các kiến trúc sư trong vùng đã hướng cảm hứng về nghệ thuật Mudejar của Tây Ban Nha thời trung cổ. Mặt tiền kiểu Baroque mới ở Peru xuất hiện lần đầu tiên tại nhà thờ Our Lady of La Merced, Lima (1697-1704). Tương tự, nhà thờ La Compañia, Quito (1722-65), có bệ thờ khắc chạm và mặt trước được điêu khắc lộng lẫy và rất nhiều salomónica có dạng xoắn ốc.
Về phía Bắc, tỉnh giàu nhất của Tân Tây Ban Nha thế kỷ thứ mười tám đã sản sinh ra một trường phái kiến trúc điên rồ và phung phí gọi là Churrigueresque Tây Ban Nha. Phong cách cực Baroque này đạt điểm đỉnh trong các công trình của Lorenzo Rodriguez, kiệt tác của ông là Sagrario Metropolita tại Mexico City (1749-69). Người ta có thể tìm thấy những hình mẫu của phong cách này tại các tỉnh xa xôi, nơi khai thác mỏ bạc. Ví dụ, điện thờ Ocotlan (bắt đầu được xây dựng vào năm 1745) là thánh đường Baroque vào hàng bậc nhất, mặt trước lợp ngói màu đỏ tươi, tương phản một cách thú vị với những chi tiết trang trí bị dồn lại rất phí phạm ở lối vào chính và những tháp nhỏ ở bên hông.
Thủ phủ thật sự của trường phái Baroque Mehico là Puebla, ở đây, ngành cung cấp loại ngói tráng men vẽ tay sẵn (talavera) và một loại đá xám địa phương đã dẫn đến một loại hình mỹ thuật mang tính cá nhân hóa và cục bộ cao, với đường nét văn hóa rõ rệt của người da đỏ.
Modernisme - Bệnh viện Đa khoa de Sant Pau
*Trường phái tân cổ điển:
Những nguyên lý cơ bản cực kỳ trí tuệ của trường phái Tân cổ điển đã thành công ở Tây Ban Nha hơn là trường phái Baroque diễn cảm hơn nhiều. Trường phái Tân cổ điển ở Tây Ban Nha do viện hàn lâm Nghệ thuật hoàng gia San Fernando, thành lập năm 1752 truyền bá. Nhân vật chính là Juan de Villanueva, người đã đưa cái đẹp và sự kỳ vĩ của Burke vào kiến trúc Tây Ban Nha, tùy theo lịch sử và từng vùng miền. Ông đã xây dựng viện bảo tàng Prado, kết hợp các chương trình- một học viện, một thính phòng và một viện bảo tàng- trong cùng một tòa nhà với ba lối vào cách biệt nhau. Đây chỉ là một phần trong chương trình đầy tham vọng của Charles III, người có dự định biến Madrid thành thủ phủ của Khoa học và Nghệ thuật. Tại một địa điểm rất gần viện bảo tàng, Villanueva cho xây dựng Đài Thiên văn. Ông cũng thiết kế rất nhiều nhà nghỉ mùa hè cho các vị vua ở El Escorial, ở Aranjuez và xây dựng lại Quảng trường lớn ở Madrid, trong số rất nhiều những công trình quan trọng khác. Các học trò của Villanueva, López Aguado và Isidro González Velázquez đã có công truyền bá trường phái Tân cổ điển khắp miền trung đất nước.
*Thế kỷ thứ 19:
*Thuyết chiết trung và phong cách địa phương :
Một công trình quan trọng theo phong cách chiết trung là cung điện Palacio de Comunicaciones de Madrid, do các kiến trúc sư Antonio Palacios và Joaquín Otamendi thiết kế, được khánh thành vào năm 1909.
*Trường phái Tân Mudéjar:
Vào cuối thế kỷ thứ mười chín, có một trào lưu kiến trúc mới nổi lên ở Madrid, như thể là sự sống lại của trào lưu Mudéjar. Phong cách Tân Mudéjar chẳng bao lâu đã lan đến những nơi khác trong nước. Những kiến trúc sư như Emilio Rodríguez Ayuso xem nghệ thuật Mudéjar như một trường phái Tây Ban Nha độc nhất vô nhị, độc đáo. Họ bắt đầu xây dựng những công trình, sử dụng một số đặc điểm của phong cách ngày xưa, chẳng hạn như khung vòm hình móng ngựa, những chi tiết trang trí bằng gạch có hình dạng trừu tượng cho mặt tiền. Nó trở thành một phong cách xây dựng rất phổ biến không những cho các trường đấu bò tót và các công trình công mà còn cho nhà cửa nói chung, nhờ vào việc sử dụng các vật liệu xây dựng rẻ tiền, chủ yếu là dùng gạch ở bên ngoài. Trường phái Tân Mudéjar thường được kết hợp với các đặc tính của trường phái Tân Gothic.
*Kiến trúc thủy tinh:
*Thế kỷ thứ hai mươi:
*Chủ nghĩa Tân thời Catalan:
Vào cuối thế kỷ thứ mười chín, khi thành phố Barcelona được phép mở rộng các ranh giới lịch sử, Eixample (lớn hơn thành phố cũ, do Ildefons Cerdá thiết kế) trở thành khu vực bùng nổ hoạt động kiến trúc, được biết dưới cái tên trào lưu Tân thời. Phong trào này ra đời với các phong cách trong quá khứ, với cảm hứng sử dụng các phong cách trong quá khứ và các dạng cơ bản đã được sử dụng, theo cách thức giống hệt như phong cách Nghệ thuật Mới đương đại và các phong trào Jugendstil tại những nơi khác ở châu Âu. Trong số các kiến trúc sư, nổi tiếng nhất là Antoni Gaudí. Công trình của ông tại Barcelona và các nơi khác tại Catalonia, trộn lẫn giữa phong cách kiến trúc truyền thống và cái mới, đây cũng là điềm báo trước cho phong cách kiến trúc hiện đại. Công trình nổi tiếng nhất có lẽ là La Sagrada Família, tòa nhà lớn nhất ở Eixample vẫn chưa hoàn thành xong.
Một trong những kiến trúc sư đáng chú ý của thời kỳ đó là Lluís Domènech i Montaner và Josep Puig i Cadafalch.
*Kiến trúc tân thời:
Năm 1928, việc thành lập nhóm GATCPAC tại Barcelona, theo sau sự thành lập GATEPAC (1930), chủ yếu từ Zaragoza, Madrid, San Sebastián và Bilbao đã tạo ra hai nhóm kiến trúc sư trẻ theo trào lưu tân thời tại Tây Ban Nha. Josep Lluis Sert, Fernando García Mercadal, Jose María de Aizpurúa và Joaquín Labayen và những người khác được tổ chức thành ba nhóm địa phương. Các kiến trúc sư khác khai thác phong cách hiện đại theo quan điểm cá nhân. Casto Fernández Shaw với những công trình mang tính nhìn xa trông rộng, song hầu hết chỉ mới ở trên giấy. Josep Antoni Coderch, kết hợp thiết kế nhà cửa kiểu Địa Trung Hải và những quan niệm mới về phong cách hoặc Luis Gutiérrez Soto đa phần chịu ảnh hưởng của những khuynh hướng Expressionist.
Năm 1929, Hội chợ Thế giới được tổ chức ở Barcelona và sảnh đường Đức do Ludwig Mies van der Rohe thiết kế đã trở thành biểu tượng ngay, pha trộn trường phái đơn giản của Rohe và những khái niệm sự thật vào vật liệu với cách xử lý mặt phẳng trong không gian chịu ảnh hưởng của De Stijl. Mái nhà lớn “treo lơ lửng” dường như không có gì làm tựa.
Trong suốt và sau cuộc nội chiến Tây Ban Nha và chiến tranh thế giới thứ hai, Tây Ban Nha thấy mình bị cô lập về mặt chính trị và kinh tế, song song với ưu tiên của nhà độc tài Franco về “một dạng hào nhoáng cổ điển, quốc hữu và yếu ớt”, phần lớn là để đàn áp lối kiến trúc hiện đại, tiến bộ tại Tây Ban Nha. Tuy nhiên, một số kiến trúc sư đã xoay sở để cho công trình của mình có được sự tồn tại song song giữa đồng thuận chính trị và sự tiến bộ trong xây dựng, chẳng hạn Gutiérrez Soto, ông quan tâm đến sự phân bố hợp lý các khoảng không gian và hình học topo, nhiều công trình của ông xen kẽ giữa sự hồi sinh lịch sử và hình ảnh theo chủ nghĩa duy lý một cách thoải mái. Những kiệt tác xây dựng của Luis Moya Blanco với những mái vòm bằng gạch rất đáng để ý. Việc chú tâm vào phương pháp xây dựng bằng gạch truyền thống đã đưa ông đến chỗ nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng tiềm tàng của loại vật liệu này trong xu hướng hiện đại.
Suốt những thập kỷ cuối cùng trong đời nhà độc tài Franco, một thế hệ kiến trúc sư mới đã cố sức cứu được di sản của GATEPAC: Alejandro de la Sota là người tiên phong trong lĩnh vực mới này, và những kiến trúc sư trẻ như Francisco Javier Sáenz de Oíza, Fernando Higueras và Miguel Fisac, thường với một ngân sách eo hẹp, đã tiến hành nghiên cứu các bản đúc và các mẫu nhà chung.
Bảo tàng Guggenheim ở Bilbao, thiết kế bởi Frank Gehry
*Trường phái kiến trúc đương đại:
Cái chết của nhà độc tài Franco và sự trở lại của nền dân chủ đã đem lại tinh thần lạc quan mới trong lĩnh vực kiến trúc cho Tây Ban Nha vào cuối những năm bảy mươi và tám mươi. Phong cách địa phương đã trở thành trường phái tư tưởng chiếm ưu thế đối với cách kiến trúc nghiêm túc. Tiền chảy vào từ quỹ của EU, từ ngành du lịch và từ nền kinh tế thịnh vượng đã củng cố và góp phần ổn định nền tảng kinh tế Tây Ban Nha, đem lại điều kiện thuận lợi cho ngành kiến trúc nước này. Một thế hệ kiến trúc sư mới đã nổi lên, trong số đó có Enric Miralles, Carme Pinós và kiến trúc sư/kỹ sư Santiago Calatrava. Năm 1992, thế vận hội Olympic Barcelona và hội chợ thế giới ở Seville đã nâng cao uy tín của Tây Ban Nha trên trường quốc tế, đến mức nhiều kiến trúc sư từ các nước suy thoái kinh tế, đã chuyển đến Tây Ban Nha tham dự vào quá trình bùng nổ này. Để công nhận vị trí đầu của Barcelona trong lĩnh vực kiến trúc, năm 1999, viện Kiến trúc sư Hoàng gia Anh đã trao tặng huy chương vàng hoàng gia cho Barcelona. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, giải thưởng được trao cho một thành phố. Bilbao đã hấp dẫn được tổ chức Solomon R. Guggenheim để họ xây dựng một phòng triển lãm mới, mở cửa năm 1997. Được Frank Gehry thiết kế theo phong cách deconstructivist (Deconstructivist là một trường phái kiến trúc hậu hiện đại, bắt đầu vào cuối những năm 1980. Đặc điểm là ý tưởng về sự phân mảnh, quan tâm đến việc vận dụng những ý tưởng về bề mặt hay lớp ngoài của kết cấu, hình dạng không thẳng dùng để bóp méo hoặc dời chỗ một số yếu tố kiến trúc, chẳng hạn kết cấu và vỏ bọc). Viện bảo tàng Guggenheim ở Bilbao trở nên nổi tiếng thế giới và chỉ một mình công trình này thôi đã nâng cao vị thế của thành phố Bilbao trên trường quốc tế. Sự thành công của một viện bảo tàng và việc xây dựng côngtrình kiến trúc hình tượng trong các thành phố để nâng cao uy tín trên trường quốc tế đã trở thành một chiến lược quy hoạch đô thị được công nhận được biết dưới cái tên “hiệu ứng Bilbao”.
Ciutat de les Arts i les Ciències ở Valencia
*Các kiến trúc sư Tây Ban Nha nổi tiếng vào thế kỷ thứ 20:
Năm 2006, cổng 4 của phi trường Barajas do Richard Rogers và Antonio Lamela thiết kế đã đoạt được giải thưởng Stirling của Anh. Torre Agbar hay tháp Agbar là một tòa nhà chọc trời tại Barcelona do kiến trúc sư người Pháp Jean Nouvel thiết kế. Tòa nhà cao 144,4 mét, gồm 38 tầng, 4 level ngầm. Thiết kế của nó kết hợp một số khái niệm kiến trúc khác nhau, tạo thành một công trình ấn tượng, nổi bật với bê tông gia cố, mặt tiền bao bằng kính, có hơn 4.400 cửa sổ mở ra.
Thính phòng Tenerife, thiết kế của Santiago Calatrava
*Kiến trúc bản địa:
Nhờ vào sự khác biệt về địa hình và khí hậu trên khắp cả nước, kiến trúc bản địa cũng cho thấy có sự đa dạng rất lớn. Đá vôi, đất sét (nung hoặc chưa nung), đá phiến, đá granite, gỗ, cỏ, được sử dụng ở những vùng khác nhau, phân bố và kết cấu khác nhau phần lớn tùy thuộc vào phong tục, tập quán từng vùng miền. Một số những công trình này là nhà ở (chẳng hạn như cortijo, carmen, barraca, caserío, pazo, alqueríacarmen, barraca, caserío, pazo, alquería).
16 tháng 6, 2010
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Kiến trúc tây ban nha nhìn thật tuyệt vời, cảm ơn bạn đã chia sẻ. qua đây mình muốn chia sẻ đến bạn địa chỉ cung cấp dịch vụ phiên dịch đa ngôn ngữ uy tín trên toàn quốc: Phiên dịch tiếng thái, Phiên dịch tiếng ấn độ, Phiên dịch tiếng pháp,.............
Trả lờiXóa